Làm Vệ Sinh Bộ Não




1. DẪN NHẬP
Vệ sinh nghĩa gốc là: Vệ = bảo vệ; Sinh = sức khỏe, sự sống. Về sau có nghĩa rộng là: Làm cho sạch sẽ, lau chùi dọn dẹp ngăn nắp. Ví dụ: Làm vệ sinh căn phòng, căn nhà, chỗ ăn, chỗ ở...

2. TẠI SAO CẦN LÀM VỆ SINH?
Ngoại trừ một số người có tật bầy hầy, bừa bãi, chúng ta ai cũng thích ngăn nắp sạch sẽ. Nên nói “Nhà sạch thì mát, bát sạch thì ngon. Nghèo cho sạch, rách cho thơm.”

Nhất là ở xứ đầy đủ vật chất này càng chuộng nếp sống vệ sinh. Đi đâu cũng thấy nhắc: Không hút thuốc, xả rác bị phạt, rửa tay cho sạch sau khi đi vệ sinh.
3. TẠI SAO CẦN LÀM VỆ SINH BỘ NÃO?
Vật chất bên ngoài cần giữ vệ sinh kỷ lưỡng như thế, huống là bộ não. Cơ quan trọng yếu nhất của chúng ta thì thế nào? Có ai dám lái chiếc xe mà bộ phận tay lái xộc xệch, lỏng lẻo, lắc lư không? Thế mà chúng ta quen sống với bộ não lao chao, bất định, rối rắm căng thẳng, ý nghĩ thay đổi như chong chóng. Ít khi tâm được thanh thản sáng suốt, an bình. Vì sao? Vì nhiều nguyên nhân.

  • Nguyên nhân bên ngoài: Cuộc sống càng ngày lại càng khó khăn, bon chen, cạnh tranh khốc liệt. Càng nhiều người, ít việc lại càng phải cố gắng để giữ việc đang làm, hay càng tranh đua với nhiều người khác để có việc làm. Lâu ngày tâm đã quen tật tranh đua, tranh giành, tranh chấp, cho đến những việc không cần tranh, ta cũng cứ tranh.
  • Nguyên nhân bên trong: Như trên đã nêu, sống trong xã hội đua chen, không có chỗ cho người lừng khừng, chẫm rãi, chậm chạp. Do huân tập lâu ngày miệng bằng tay tay bằng miệng nên việc gì ta cũng lanh tay, lanh chân, lẹ làng, không chậm trễ. Lâu dần tâm ta luôn luôn ở trong tâm trạng đáp ứng mau lẹ với sự việc. Người ta chưa đánh ta đã hạ thủ, gọi là đánh phủ đầu. Nó trở thành một quán tính, một phản xạ, một tinh thần tranh thắng, tranh hơn trong mọi trường hợp.
4. NÃO VÀ TÂM
Não bộ là một cơ chế vật chất nằm trong hộp sọ, gồm có nhiều tỷ tế bào thần kinh (Neuron). Nhưng nó quan trọng là chỗ gá nương của cái TÂM.

Ngày xưa người ta quan niệm rằng TÂM ở nơi trái tim. Chữ Hán viết Tâm theo tượng hình trái tim, hay định nghĩa Tâm là tim. Sau này khoa học chứng minh, thay tim mà không thay Tâm. Như vậy Tâm không ở nơi tim mà ở nơi não. Não đảo điên Tâm điên đảo. Não an tịnh Tâm thảnh thơi.
Bộ não có nhiều chức năng, xin tạm kể:
  • Ý thức phân biệt, ý căn suy nghĩ, trí năng suy luận, ký ức ghi nhớ.
  • Vùng giác tri tâm linh, tánh giác gồm có tánh thấy, tánh nghe, tánh xúc chạm và tánh nhận thức biết (không lời).
  • Đường mòn ngôn ngữ gồm có: Vùng kiến giải tổng quát (Wernicke), vùng giải mã (Broca) vùng nói (trên thùy đỉnh) vùng cơ chế phát ngôn. (miệng lưỡi, cổ họng, dây âm thanh, âm quản).
  • Hệ thống viền não (để nhớ).
5. TÂM LÀ NHỮNG GÌ?
Theo Phật học, tâm gồm có:

A. Tâm – Ý – Thức
Tâm Citta: cái tâm tổng quát, tâm đời, tâm đạo, tâm linh.
Ý Mano, manas: tâm tư duy, suy nghĩ, tính toán, bươi móc quá khứ.
Thức Vinnana: tâm phân biệt, so sánh, tâm hai bên (nhị nguyên).

B. Thọ – Tưởng – Hành – Thức
  • Thọ: cảm giác (sensation), cảm nhận (feeling).
  • Tưởng (perception): các mạng lưới khái niệm.
  • Hành (mental formation): các sắc thái tâm, phản ứng của tâm.
  • Thức (consciousness): tâm phân biệt, lời nghiệp, thân nghiệp.
C. Sáu căn: mắt–tai–mũi–lưỡi–thân–ý (5 giác quan và cái ý)
  • Sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
  • Năm đối tượng (bên ngoài) của giác quan và ý nghĩ.
  • Sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức (tâm thức).
  • Sáu căn tiếp xúc với sáu trần liền sanh sáu thức.
D. Tóm gọn lại, có 3 tâm:
  1. Tâm phàm phu: ý căn, ý thức, trí năng (tâm dính mắc).
  2. Tâm bậc Thánh: Tánh Thấy, tánh Nghe, tánh Xúc chạm (biết mà không dính mắc).
  3. Tâm Phật: Tánh nhận thức biết không lời hay Tâm Như.
6. NHỮNG GÌ CHI PHỐI TÂM?
A. Tập Khí Lậu Hoặc:
  • Lậu hoặc: chất độc rỉ chảy trong tâm – tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến... hay
  • Tập khí: những đam mê, ghiền nghiện đã được huân tập.
B. Kiết sử:
Những thứ dây trói buộc tâm.
  • Truyền thống gia đình
  • Truyền thống văn hóa xã hội
  • Truyền thống dân tộc
  • Truyền thống tôn giáo
  • Chủ nghĩa, ý thức hệ.
C. Tùy miên:
  • Những ấn tượng sâu sắc
  • Những xúc cảm mãnh liệt
  • Những hình ảnh ghê rợn
  • Ghi đậm trong tiềm thức, ngủ ngầm trong tâm, thầm thầm gợi lên thường trực.
D. Tâm ba thời:
  • Tâm quá khứ, luyến tiếc, hối hận
  • Tâm tương lai, ước mơ, mong cầu
  • Tâm hiện tại, thói quen, sở thích.
E. Tâm ghi nhớ:
  • Ký ức vận hành ghi nhớ những chuyện vừa xảy ra.
  • Ký ức dài hạn ghi nhớ những chuyện xa xưa.
  • Tâm xúc cảm: gặp việc tự đột khởi do dồn nén lâu ngày, nay bùng phát, hành động tàn bạo không kịp suy nghĩ, kể cả người có tiếng đạo đức cũng giết người.
F. Tâm dính mắc:
Mắt thấy sắc, dính mắc với sắc.
Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, da xúc chạm đều dính mắc với đối tượng.
Từ dính mắc, tâm sẽ duyên theo, dệt thành mạng lưới khái niệm, đưa đến tâm xúc cảm và tạo nghiệp lành, nghiệp dữ.

G. Ngũ dục lôi cuốn:
  1. Tài: tiền của, nhà cửa, tài sản.
  2. Sắc: sắc đẹp, sắc dục, cái thích của mắt, tai, xúc chạm.
  3. Danh: danh vọng, quyền thế, lời khen, tiếng chê.
  4. Thực: ăn uống chuộng cao lương mỹ vị, đồ ngon, vật lạ.
  5. Thùy: ngủ nghỉ, ưa thích giải đãi, lười biếng.
Năm dục này là 5 sức lôi cuốn mạnh mẽ, tâm không bao giờ được yên ổn.
H. Nghiệp chướng chi phối:
  • Biệt nghiệp, nghiệp riêng của mình, cùng chung một cảnh mà mình khổ hơn người chung quanh.
  • Cộng nghiệp, nghiệp chung của một nhóm, nghiệp của gia đình, nghiệp của đồng đội, nghiệp của người lưu vong.
  • Những thứ đua đòi theo người, a dua theo số đông, bị số đông lôi cuốn. (Ăn mặc theo thời trang, sửa sang sắc đẹp theo người mẫu).
  • Những đam mê ghiền nghiện ngoài ý muốn, không chống lại được (theo bạn bè vô sòng bạc, vào quán nhậu, vào chỗ ăn chơi).
  • Những ràng buộc với người mình không thích, không rứt ra được (trong sở làm, gặp boss làm tình làm tội, không bỏ sở được).
  • Những quyết định bất chợt chuyển hướng cuộc đời vào sa đọa (giận tình đời, quay sang trả thù đời. Đang đi trên đường sáng sủa, bổng vì một phút giận hờn bất mãn mà bước sang nẻo đen tối).
  • Những gió nghiệp cản trở con đường hướng thượng, con đường tâm linh (Tìm được Pháp được Thầy mà bị người nhà cản trở không cho tu học).
I. Tâm tò mò, thắc mắc, cái gì cũng muốn biết:
  • Tâm hay dính mắc vào chuyện trái tai, gai mắt, những chuyện không đâu
  • Tâm hay xía vào những chuyện phù phiếm, thị phi bên đường
  • Tâm dễ bị những chuyện quái dị, mê tín, dị đoan, thần quyền lôi cuốn
  • Tâm dễ duôi, dễ bị ma lực đam mê lôi kéo (ma túy, ma men, ma dâm, thần đổ bác, thần khẩu)
  • Tâm thích sưu tầm, cất giữ, tích trữ, ôm đồm nhiều việc mà không việc gì làm tới nơi tới chốn
  • Tâm đam mê một thứ gì đó quên cả cuộc đời (đam mê thể thao, đam mê nghệ thuật, đam mê khoa học, đam mê văn chương chữ nghĩa)
  • Tâm hay thắc mắc chuyện nhỏ mà quên chuyện lớn (người bị mũi tên độc không lo chữa độc mà cứ muốn biết ai bắn, tại sao, chất độc gì... Rốt cuộc cứu không kịp).
J. Tâm bị ảnh hưởng của thời đại: Tự do cá nhân, tự do hưởng thụ:
  • Ăn theo thuở, ở theo thì. Ai sao ta vậy.
  • Về thân, chạy theo cách sống đua đòi. Ai có gì ta cũng phải có cái đó, kiểu trưởng giả học làm sang.
  • Về tâm, nuông chiều ý thích, ham muốn, nuông chiều xác thân, hưởng thụ.
  • Đau bệnh ỷ có bác sĩ nhà thương. Không biết ăn uống lành mạnh và tập tành nếp sống biết đủ.
  • Không kể đạo đức luân lý, bất chấp phải trái, thiện ác. Thấy người làm được, ta làm được, miễn được việc mình ai bị thiệt kệ họ.
  • Về trí tuệ tâm linh, cho đó là món khó tin, xa vời, không cần thiết. Chỉ cần trí lanh xảo, mưu mẹo ăn thua hơn người một bước là hay là giỏi.
  • Bắt não làm việc quá sức, vui chơi hưởng thụ cũng tối đa, tom góp của cải vật chất càng nhiều càng tốt, ăn uống thỏa thích. Tất cả đều quá độ, vô độ. Kết cuộc thân phải bịnh, tâm phải khổ, và bị những chứng bịnh thời đại khó chữa như: bệnh tim mạch, bệnh tiểu đường, bệnh liệt rung Parkinson, bệnh ung thư, bệnh ảo giác...
7. TẠM KẾT
Như trên đã phân tích, não bộ tuy có nhiều tỉ tế bào cất giữ dữ kiện, có thể tu tập phát huy trí tuệ tâm linh nhưng chúng ta không lựa chọn con đường chánh trí. Chúng ta lại chọn con đường dục lạc thế gian, đưa đến thân bệnh, tâm khổ, tâm linh mờ tối.
Ngược lại, con đường tâm linh hướng thượng, biết đủ, đưa đến thân khỏe, tâm an, và trí sáng. Vì sao? vì biết làm vệ sinh não bộ. Làm sạch não bộ, tẩy bỏ bớt những thứ rác rưởi, cặn bả độc hại ra khỏi tâm.
Ví như người biết mình đi lầm đường, quay lại tìm đường an lạc, hạnh phúc.
Ví như người biết mình không thấy tỏ, tìm cách chữa mắt cho tỏ rõ, sáng mắt.
Ví như người lắm bệnh, tìm cách tự chữa bệnh cho lành thay vì bệnh mình không lo, lại lo chữa bệnh người.
Nếu biết làm vệ sinh não bộ thì cuộc đời sẽ bớt khổ, thoát khổ và giác ngộ.
Nếu chưa biết, xin ghi tên học lớp “Thiền” để tự mình làm vệ sinh não bộ.
Không Chiếu
Trích từ Đặc San Thiền Tánh Không số 6 năm 2011